Trang 272 tới 286 Những Bài Sáng-Tác năm Canh-Thìn (1940) CỜ TAM SẮC Tam-sắc cờ bay phất-phới mà, Ngồi nhìn nhớ kỹ héo lòng ta. Thuở xưa đâu có cờ tam-sắc, Gặp cảnh vong bang ứa ruột-rà. * Lúc Đức Thầy ở nhà thương Chợ-Quán, Ngài có gởi về Hòa-Hảo bài dưới đây và dặn bôi bỏ bài trên. Anh em bổn-đạo lúc đó cũng chưa hiểu vì sao Đức Thầy bảo sửa. Bỗng một bữa nọ, Cai-Tổng Pho đến nhà Đức Ông đem vấn-đề thi-văn của Đức Thầy ra nói chuyện, có ý muốn làm khó dễ Đức Ông về bài thi Cờ tam sắc nói trên. Liền đó, Đức Ông bảo ông Hương-quản Diệp (ngẫu nhiên có mặt trong lúc đó) đọc bài dưới đây. Nghe xong, Cai-Tổng Pho vỗ tay nói:Vậy mà người ta nói lại khác chớ ! * Tam-sắc cờ bay phất-phới mà, Ngồi nhìn khoan-khoái cõi lòng ta. Thuở xưa đâu có cờ tam-sắc, Nay hiệp Tây Đông thể ruột-rà ! Hòa-Hảo, ngày 1 tháng giêng Canh-Thìn (1940) (Chép theo bản chánh do Ông Nguyễn-Chi-Diệp giữ) Trang 272 ĐẦU NĂM Đầu năm tục-lệ gọi ngày mùng, Tiếng pháo đốt hoài cũng thấy chung. Xóm trên xóm dưới cùng nhau đốt, Khúc giữa phần ta mãi nghe hùn. * Nghe hùn lỗ nhĩ cũng lùng-tung, Ngày một tiếp xuân mới vô cùng. Mèo lui rồng tới bay vơ-vẩn, Thế-giới chiến-tranh nổ khắp bùng. * Mồng một năm nay rõ thiệt Thìn, Hẹn cùng non-nước vẫn đinh-ninh. Cố chí tấm lòng gìn đạo-đức, Mặc tình bá-tánh chẳng thèm tin. * Nam-hải Quan-Âm lấy tịnh bình, Cầm nhành dương-liễu rảy tà-tinh. Quyết lòng độ tận trong sanh-chúng, Ai ghét ai ưa cũng mặc tình. * Xuân sang ảm-đạm ánh dương mờ, Thệ quyết một lòng chẳng bỏ ngơ. Có sông có núi cùng cây cỏ, Độ tận chúng-sanh khỏi dại khờ. * Lòng ta gặp cảnh rối tơ vò, Gan ruột phổi phèo một bộng to. Trang 273 Lo hoài lo mãi không sao xiết, Tiên cảnh chúa tôi vẫn hẹn-hò. * Hò-hẹn Phật Tiên hiệp một ngày, Một ngày thế-giới khỏi bi-ai. Trung-Ương tam cõi đều hòa mặt, Ta mới thảnh-thơi trở gót hài. * Gót hài muốn trở phải làm sao ? Đạo-đức thâm sâu hãy bước vào. Sớm chiều lo-liệu rèn tâm trí, Niệm-tưởng Phật Trời thỏa ước-ao. * Hòa-Hảo, ngày 1 tháng giêng Canh-Thìn (1940) ( Chép theo bản chánh do ông Nguyễn-Chi-Diệp giữ ) ĐỐT PHÁO XUÂN Lẹt-đẹt rồi đây lẹt-đẹt bùng, Đùng-đùng lẹt-đẹt nổ lùng-tung. Lùng-tung lúng-túng dân ta túng, Ngao-ngán cho xuân Lão bắt khùng. * Đoái thấy xa xa một cái đèn, Ngoài đường trời tối thiệt len-nhen. Tiết xuân buồn-bã vì ngập lúa, Nên phải ăn chơi cách quá hèn. * Hòa-Hảo, ngày 1 tháng giêng Canh-Thìn (1940) ( Chép theo bản chánh do ông Nguyễn-Chi-Diệp giữ ) Trang 274 TỐI MÙNG MỘT Nhuần gội ơn trên rải Đạo mầu, Thương đời chỉ-vẽ nẻo cao sâu. Khai rừng kinh-kệ câu huyền-bí, Để cứu nhơn-sanh khỏi thảm-sầu. * Hương đăng nghi-ngút lễ vọng-cầu, (1) Cám lòng bá-tánh nguyện từ câu. Chí quyết một lời ta độ tận, D¡t chúng lánh xa cảnh mộng sầu. * Giữ nguyện đinh-ninh tiếng tạc-thù, Làm lành đâu phải tốn tiền xu. Mà sau lại được về Tiên-cảnh, Thêm thoát ngục mê chốn Diêm-phù. * Diêm-phù chơn Chúa chọn người tu, Hành phạt ác-hung chốn cửa tù. Tiếp-nghinh những kẻ lòng nhơn-đức, Hỡi bớ dương-trần hãy rán tu. * Rán tu vẹt phá đạo lu-bù, Thấy chúng đời nầy lạc chữ tu. Sớm tỉnh kệ kinh tìm hiểu lý, Một ngày hội-hiệp hết mờ lu. * ( 1 ) Đêm ấy ông Hương-Kiểm Chương và anh em ở Hưng-Nhơn (Châu-Đốc) đến dưng bông lễ Phật. Trang 275 * Mờ lu được sáng rắn hóa cù, Hiệp mặt phân trần nỗi ám-u. Tớ Thầy tôi chúa cùng nhau gặp, Khắp hết thế-gian thoát chốn tù. * Chốn tù vốn thiệt cõi ta-bà, Tiên-cảnh được về mới lánh xa. Chúng-sanh chìm đắm trong vòng khổ, Khuyến dạy bởi vưng sắc Ngọc-tòa. * Ngọc-tòa Phật-Tổ nấy sai ta, Xuống cứu thế-gian nẻo vạy tà. Hiệp sức tớ Thầy truyền diệu-pháp, Cho đời thấu tỏ Đạo ma-ha. * Ma-ha thoàn nhỏ dọn rồi đa, Bước xuống đi qua bến giác mà. Sao hỡi còn chờ ta réo mãi ? Dân-tình xem giảng cứ ngâm-nga. * Ngâm-nga việc khổ tới bên a, Bổn phận tu hiền phải lánh xa. Biết Đạo tùy thời mau tránh khổ, Chớ đừng thi-thố những tài-ba. * Tài-ba khoe sức uổng thây mà ! Nhựt dạ yêu đời dụng khuyến-ca. Tỉnh-thức nhơn dân đang mờ-ám, Nên làm thi phú đặng ngâm-nga. * Trang 276 Ngâm-nga hiểu nghĩa đáng kim ngà, Huyền-bí nhiều lời chỉ thiệt xa. Bổn-đạo rán tìm cho cặn-kẽ, Lòng hiền Phật độ khỏi tinh-ma. * Hòa-Hảo, đêm mồng 1 tháng giêng Canh-Thìn( Ông Nguyễn thanh-Tân có họa mấy chục bài thi xuân trên đây nhưng xin miễn đăng.) ( Chép theo bản chánh do Ông Nguyễn-Chi-Diệp giữ )
Thầy giáo XOÀI (tức soài tức MạNH-XUÂN-QUẢ ) xướng : Đạo-đức bao nhiêu dám gọi Thần, Bia danh mô-phạm để lừa dân. Trời Âu tấn hóa nhờ khoa-học, Đất Á suy đồi tại biếng thân. Nhồi sọ nhơn-sanh kêu thức-tỉnh, Mê hồn bá-tánh gọi người ân. Dạy đời mở Đạo mình coi dở, Sánh lại khác xa Việt với Tần.
ĐỨC THẦY đáp họa : Ngu-muội Khùng Điên chẳng thuyết Thần, Đôi lời cuồng-sĩ gọi lòng dân. Văn-minh lợi dụng nhờ hay học, Giỏi chữ lòe đời để lập thân. Ham sướng dương-trần ôi ! khó tỉnh, Ưa vui dân sự chẳng thi ân. ỷ mình chê chúng rằng hay dở, Ganh-ghét hiền nhu thứ ác Tần.
Trang 277 Thầy giáo XOÀI xướng : Biết ai là Thánh biết ai Thần, Học hỏi thầy mô dám dạy dân. Khuyên nhủ thiện-nam nên để tóc, Vỗ-về tín-nữ lại tu thân. Niết-bàn dành để người phàm-tục, Trần-thế màng chi cuộc ái-ân. Muốn dắt đồng-bào qua bể khổ, Đạo mầu xin luyện mấy non Tần.
ĐỨC THẦY đáp họa : Đâu màng bá-tánh gọi danh Thần, Tự-giác huyền-cơ để giáo dân. Bắt chước ông cha ta để tóc, Noi theo tổ-phụ đặng gìn thân. Lòng yêu chi sá lời thô-tục, Dạ ái đâu cần chúng đáp ân. Hồng-Lạc chỉ đường qua cảnh khổ, Kìa ai chớ tập tánh dân Tần. * Thầy giáo XOÀI xướng : Mê-tín dị-đoan mới tặng Thần, Noi gương hiền-triết lại chăn dân. Sám kinh lấy nể răn truyền giáo Giảng dạy là mưu để ấm thân. Khai sáng đứa mù đời trách oán, Làm ngu kẻ trí gọi là ân. Ông ôi ! nay đã bao nhiêu tuổi ? Sao chẳng có lo cuộc Tấn-Tần ?
*
Trang 278
ĐỨC THẦY đáp họa :
Lọc lẽ tà tâm ấy gọi Thần,
Trượng-phu người phải biết thương dân.
Nồi cơm thiếu bữa tranh nghề giáo,
Trách cá hụt dùng đoạt mối thân.
Ở phải giúp giùm sao nói oán ?
Ôi thôi, làm mướn chớ rằng ân.
Đạo đời chẳng luận người cao tuổi,
Xin miễn cho ta cuộc Tấn-Tần.
*
Chẳng phải lòng ta muốn họa thơ,
Ví như văn-sĩ đáp lời ngờ.
Đạo mầu giữ phận không cao thấp,
Ai đọc qua rồi phải bỏ lơ.
*
Thi phú dầu cho thấu đến tai,
Cũng đừng giận-giũi mới là hay.
Bóp lòng chìu ý nên lời trả, (1)
Tôn-chỉ người tu sái việc bài.
*
Tôi làm như thế khác lời tu,
Giả dạng nhà nho muốn trả thù.
Người xỏ tới mình, mình đáp lại,
Chớ tình chẳng chịu viết thi ru.
Hòa-Hảo, Tết Năm Canh-Thìn
(1) Đức Thầy không muốn trả lời ba bài thi của thầy giáo Xoài, nhưng vì ông giáo Long, người đưa thơ, cố nài-nỉ mãi nên bất đ¡c dĩ Ngài mới chịu đáp họa.
Trang 279
Ông HUỲNH-HIệP-HÒA
( Làng Bình-Thủy, Tỉnh Long-Xuyên ) xướng :
Phỏng cầu Tiên Phật dẫn kim châm,
Phạn ngữ truyền lai tối thậm-thâm.
Phanh luyện ô kim mong điểm đạo,
Tiễn ngao thế chỉ hóa khai tâm.
Thuấn Nghiêu thọ thọ nguy duy hiển,
Phật Lão hư không bí khuyết thầm.
Thị nhị giáo-sư đoàn thuyết-pháp,
Tảo tương thích điển chúng-sanh tầm.
ĐỨC THẦY họa :
Mã hồi nhơn diện ngã kim châm,
Pháp-giáo phạn-văn bát diệu-thâm.
Lam thất thanh chơn hà khuyết Đạo,
Qui hồi bí hiểm trị nhơn tâm.
Môn-gia khảo sát lai duy hiển,
Vị-khí nan thông ký cảm thầm.
Ngã thị vô biên nhiên lập pháp,
Hòa giai Nam-đỉnh tác thi tầm.
Hòa-Hảo, mồng một Tết năm Canh-Thìn
Ông HUỲNH-HiệP-HÒA xướng :
Chúng-sanh tầm đắc đạo nan minh,
Bửu-bối trừng tâm thể dụng tinh.
Cầm-kiếm đảnh lư an trí thủ,
Càn-khôn nhựt nguyệt vị đồng linh.
Trang 280
Siêu phàm ôn dưỡng âm-dương số,
Nhập thánh đề khai thế-tục tình.
Thái-Thượng, Thích-Ca luân kiếp giáo,
Đơn song đồ-đệ cổ kim minh.
ĐỨC THẦY họa :
Chúng-sanh khố diệt diện nan minh,
Ly cấu từ-bi cái thế tinh.
Nhan-Thước duyên-do tam diễn thủ,
Can trừ danh-vị nã kỳ linh.
Ngộ thâm nan liễu âm-dương số,
Xác tục trần gian cố dục tình.
Thổ phỉ nam lương toàn khuyến-giáo,
Tâm tồn ngôn xuất biện kim minh.
Ông HUỲNH-HiệP-HÒA xướng :
Hội trung bửu-cái cổ-kim truyền,
Tri giác hư linh kế lập thiên.
Siển, triệt phân-minh Châu-Võ kỷ,
Âm, dương chuyển-luyện Hớn-thê tiên.
Lôi-Âm kinh-ký khai đàn-việt,
Sơn-Thứu từ tăng phản bổn nguyên.
Gia bác na thời di phổ hóa,
Huyền-cơ như thử kiếp trần yên.
ĐỨC THẦY họa :
Bửu gia nan hối thế-gian truyền,
Tam thế hư không tế kiệm thiên.
Nhơn ngã hạ-nguơn phân bất kỷ,
Qui hồi thượng-cổ bút thê tiên.
Trang 281
Chất âm, thinh, sắc phi tiêu-diệt,
Bài phỏng liêm-gia bế hộ nguyên.
Lập chí hiền-nhu đương kế hóa,
Thi thần ký chú định hòa yên.
*
Ông HUỲNH-HiệP-HÒA xướng :
Ngọc quang cảnh nội chủ càn-khôn,
Tam nhứt vô cùng kiến thúc tôn.
Âu-Á chiến-tranh thùy th¡ng lợi ?
Kim lê uổng-tử sắc hà môn ?
*
Hà môn giáp tý giáng lâm trần,
Đào-tạo lương-tâm khổ não dân.
Xuất-hiện mạng chơn phi quyết chiến,
Cấu ai trị địa hội quân thần.
ĐỨC THẦY họa :
Thành tha ngũ nội nã càn-khôn,
Cái thế vô linh mạng thích tôn.
U lịch bá trừ nô bính lợi,
Tiền đồ lê dị đắc giang môn.
*
Tam thiên lục bá giáng lâm trần,
Khóc tử lang tâm biến họa dân.
Tà quái hạ nguơn khai ác-chiến,
Ất niên bình thự kiến quân-thần.
*
Trang 282
Ông HUỲNH-HiệP-HÒA xướng :
Phiến ngôn đại chấn điểm nam cương,
Khẩu tụng Văn-Vương vị bốc tường.
Dữ thiện ngôn ngôn tung nhứt nhị,
Hành nhơn tịch tịch muội tâm lương.
Mã lai thủ thị danh thương pháp,
Thủy kiệt chưởng thâm tẩy khổ trường. (1)
Thi vấn hồi âm tri bửu hiệu,
Tứ minh tam vị hiển văn-chương.
ĐỨC THẦY họa
Hồi đầu điểm Đạo chuyển phong cương,
Háo th¡ng bi ly đạo khổ tường.
Tề tướng Cam-phong an diện nhị,
Hàn nhơn thọ khóa tác tâm lương.
Thiên-tôn mật sát nhơn-gian pháp,
Phật-lý di khai đại-hội trường.
Tam bá ngoại niên chơn bút hiệu,
Hàn lâm nhứt đấu vịnh thiên chương.
Hòa-Hảo, mùng một Tết năm Canh-Thìn
(1) Nếu chiết tự 6 câu đầu của bài nầy thì chúng ta thấy mấy chữ sau đây: Trạng Trình, Cữ Đa, Đề Thám. Ông Huỳnh-Hiệp-Hòa muốn hỏi coi Đức Thầy có phải là một trong 3 ông đã kể trên đây chăng ?
*
Trang 283
Ông HUỲNH-TRUNG-HÒA
(thầy ba Tươi)ở làng Kiến-An (Long-Xuyên) xướng
Lưng-chưng khó hiểu khách trần-gian,
Sớm mặn chiều chay lắm nhộn-nhàng.
Đặc đất phấn tình tô láng mép,
Cả trời lửa chướng đốt nồng gan.
Khéo đam điệu hạnh trêu màu Phật,
Đành để xương da nhuộm máu phàm.
Riêng tưởng trồng gieo rừng bác-ái,
Những mong trông ngóng đến Thiên-đàng.
ĐỨC THẦY đáp họa :
Từ rày đặng nẻo lánh trần-gian,
Chẳng hiểu mặn chay mới nhộn-nhàng.
Ngao-ngán cho người ôi quá mép,
Thương đời mê-muội luống bầm gan.
Đạo-mầu chẳng hiểu nên lừa Phật,
Hiển diệu ra cơ giác tỉnh phàm.
Dạ luống ước-mong đời bác-ái,
Quyết lòng chỉ rõ nẻo Thiên-đàng.
Hòa-Hảo, mùng 3 Tết Canh-Thìn
Viếng non Ông KéT
Non Tiên gió mát toại lòng thay,
Tức cảnh thi văn nhả một bài.
Cố tưởng ước mơ về nhược-thủy,
Ngặt vì không cánh lấy gì bay.
*
Trang 284
Dắt xác phàm-phu viếng non Đoài,
Hỏi nhờ đá cục ngủ đêm nay.
Chư sơn Bảy núi đều qui tựu,
Thầy tớ cảnh Tiên rõ mặt mày.
*
Nhìn xem cây lá gió lung-lay,
Sáng lại lui chơn trở gót hài.
Vậy hỡi chư Thần mau nối gót,
Theo Thầy dắt chúng khỏi nồng cay.
*
Lầu đài núi Cấm lộ nay mai,
Thức tỉnh chúng-sanh mới tỏ bày.
Khuyên dạy dân tình minh đạo-đức,
Tu hành được thấy cảnh Bồng-Lai.
Trên non, ngày 15 tháng giêng năm Canh-Thìn
( Đức Thầy đọc bốn bài nầy cho ông Hương-giáo Tập ở Thới-sơn (Châu-Đốc) viết tại trên non và khi về nhà, Đức Thầy còn đọc lại cho anh em tín-đồ chép.)
*
Ông TÙNG
(ở vàm Cái-Đầm, thôn Hòa-Hảo)
hỏi ĐỨC THẦY :
Càn-khôn Tạo-Hóa ở một bầu,
Kính hỏi thăm Thầy vậy ở đâu ?
Sắc ở Tà-Lơn hay núi Cấm ?
Cán còn khâu mất cất ở đâu ?
*
Trang 285
ĐỨC THẦY họa :
Cũng biết càn khôn vẫn một bầu,
Tây-Phương yêu chúng chẳng ngồi lâu.
Sắc của A-Di là Phật-Tổ,
Bốn chữ xuống trần chớ ở đâu ?
Ông TÙNG hỏi
Cắc-cớ vì đâu khéo vấn-vương,
Đem lời Phật Thánh dám bày tường.
Thiên-cơ bất khả sao ông nói ?
Phật Thánh Tiên Thần dám phô trương.
ĐỨC THẦY họa
Vì tình nhơn-loại mới vấn-vương,
Thương đời lầm lạc Lão bày tường.
Thiên-cơ được lịnh nên ta nói,
Phật Thánh phần ta mới bày trương.
Hòa-Hảo, năm Canh-Thìn
THỜI LAI DIệN MụC
Hồng nhạn ô qui thán giả hồ,
Thi thần đởm khí ngộ hà mô.
Điện phong vạn hộ vô thiên ảnh,
Tổn khí thao tồi vọng nhứt vô.
Đức Huỳnh Giáo Chủ 286
Nhứt vô tam kiến cái thiên hồng,
Tông tích kỳ sanh chuyển kiếp thông.
Khai cảnh nguyệt đài minh hạ giái,
Thời lai diện mục tác hài công.